Ra Huế viếng thăm Thiền sư Thích Nhất Hạnh
Lúc đi viếng Phật tích ở Ấn Độ, các cháu rủ chúng tôi đi Huế thăm Thiền sư Nhất Hạnh, nhà tôi và tôi đồng ý đi cùng các cháu. Nhớ lại lúc ở Mỹ có thấy tin tức Sư cô Chân Không tiếp phái đoàn Nghị sĩ hay Dân Biểu Mỹ đến Huế thăm Thiền sư Nhất Hạnh, tôi ước chi lúc đó nếu đang ở Việt Nam, tôi sẽ bay ra Huế để thăm viếng Sư cô, vì trên 50 năm rồi chưa có dịp gặp lại. Năm 1965, Sư cô là Chủ tịch Tổng Hội Sinh Viên Viện Đại Học Vạn Hạnh khóa II, tôi là Phó Chủ tịch Ngoại vụ, chị Nhất Chi Mai là Thủ quỹ.
Ngày Thứ Bảy 20-4-2019, chúng tôi bay ra Huế với thành phần đi Ấn Độ hôm trước gồm có Bùi Văn Đà, Trần Cảnh Hải Đoan, Thanh, nhà tôi và tôi. Chúng tôi đi chuyến bay VietJet vaò lúc 6 giờ sáng, còn Hải Đoàn và Thanh đi chuyến bay Air VietNam vào lúc 6 giờ 15. Ra đến phi trường Phú Bài, chúng tôi đợi một chốc thì có Hải Đoan, Thanh, Nga, Laura và Tiên ra nhập thành một nhóm 8 người, chúng tôi về khách sạn Laurel tại số 7 Đội Cung, nằm cạnh khách sạn Mường Thanh, Huế.
Vì chưa tới giờ nhận phòng, nên chúng tôi gửi hành lý tại khách sạn rồi tranh thủ đi ăn sáng và lên chùa Từ Hiếu. Vì có người ăn chay và ăn mặn nên chúng tôi chia làm 2 xe, xe chúng tôi có Đà, Nga, nhà tôi và tôi đi từ thành phố qua khỏi Từ Hiếu rồi ghé quán Thiền Tâm ăn sáng. Ra Huế dĩ nhiên là chúng tôi dùng Bún bò Huế, bánh Nậm và Bánh Bột Lọc.
Trong quán nầy có 3 căn nhà, căn ngay cổng ra vào, có tầng lầu, căn kế có quầy tính tiền, căn tiếp theo có nhà bếp và vài cái tủ bán vật kỷ niệm như xâu chuổi, tràng hạt, tượng Phật, kế đó là nhà vệ sinh.
Trong mồi nhà ăn bày biện bàn ghế theo phong cách cổ xưa của người Huế.
Sau khi dùng cơm xong, chúng tôi đến chùa Từ Hiếu cũng gặp nhóm những người kia đến, chúng tôi vào chùa đang trùng tu Chánh điện, nên vào phía sau để lễ Phật và chụp một tấm ảnh kỷ niệm bên cạnh gốc khế già trên trăm tuổi.
Chúng tôi rời Hậu liêu, sang Diệu Trạm Ni Viện bên cạnh chùa, hỏi thăm Sư cô Chân Không đã về Pháp, chúng tôi đành phải chờ người thầy thuốc đang trị bệnh cho Thiền sư từ Quãng Nam ra, ông ta hứa sẽ đưa cháu Nga là người có quen với ông ta vào gặp Thiền sư.
Chúng tôi chờ đợi ở sân ni viện, dưới tàng nhà mát nhỏ.
Rồi chúng tôi sang nhà Thiền trà, tôi phát hiện Thanh và Nga giống nhau như hai chị em, nhưng đây là lần đầu tiên hai người đi chung với nhau.
Do trời oi bức quá, tôi rời nhà Thiền trà vào trong nhà khách tìm chỗ ngồi uống nước, trong khi có nhiều Tăng, Ni và khách thập phương ngồi ăn tàu hũ. Có một ni cô đến chào và hỏi tôi có dùng được tàu hũ không ? Tôi cám ơn không dùng.
Tôi trở ra ngoài ngồi lại dưới mái nhà mát nhỏ, nhưng trời oi bức quá tôi lại vào trong nhà khách ngồi dưới cây quạt máy. Lúc nầy, chư Tăng, Ni và khách thập phương dùng cơm trưa xong, họ tản mát cả, có một ni cô đến chào tôi và hỏi:
- Thưa chú, chú có cần nghỉ trưa không ?
Tôi đáp:
- Dạ thưa cô không cần.
Cô ấy lại ân cần nói tiếp:
- Thưa chú ! Chú cần nghỉ trưa mời chú lên lầu, trên đó có phòng lạnh.
Thấy cô ấy ân cần quá, tôi tôi đứng lên, cám ơn và đi ra phía trước, ngay lúc đó nhà tôi vẫy gọi tôi ra về khách sạn nghỉ trưa, chiều sẽ trở lại vì người thầy thuốc khoảng 3 giờ chiều mới ra tới.
Trên đường Lê Ngô Cát có một cái cổng đi vào chùa Từ Hiếu, xe chạy vào một khoảng, bên tay trái có cổng chùa Từ Hiếu.
Qua khỏi cổng là một cái hồ nước bán nguyệt xây tô, có nhiều cá bằng cườm tay, có cả rùa, qua khỏi hồ có con đường dẫn vào chùa, nếu rẽ trái sẽ dần đến ni viện Diệu Trạm, nếu bước lên những bậc cấp sẽ dẫn lên chùa, Chánh điện đang trùng tu, cho nên theo Đông lang sẽ dẫn đến Hậu tổ.
Kế bên Tây lang có 2 cái tháp, một cái của Tăng Cang Nhất Định, một cái của Hòa Thượng Tăng Cang khác.
Chùa Từ Hiếu ban đầu chỉ là một Thảo Am với tên gọi là am An Dưỡng do Tổ sư Nhất Định lập nên vào năm 1843. Ngài vừa tu hành vừa lo chăm sóc mẹ già. Cảm động về sự hiếu thảo, sau khi ngài viên tịch, Vua Tự Đức đặt cho chùa tên là “Từ Hiếu tự”. Hiểu theo nghĩa của Đạo Phật là đạo hiếu giữa bố mẹ và con cái.
Năm 1848, Hoà thượng Cương Kỷ bắt đầu xây dựng chùa quy mô hơn với kinh phí được vua Tự Đức cấp và từ các vị quan thái giám triều Nguyễn và các Phật tử cúng dường. Từ đó, chùa Từ Hiếu trở thành một ngôi chùa lớn.
Bên tay trái cạnh tháp của 2 vị Tăng Cang là nhà trù hoặc tăng xá tôi không rõ, có hành lang là những bậc thang dẫn lên liêu của Trụ trì, qua khỏi liêu của Trụ trì là khu lăng mộ của các Thái giám triều Nguyễn là những vị góp phần tôn tạo chùa.
Hơn 3 giờ rưỡi, chúng tôi mới trở lại chùa Từ Hiếu, trước sân chùa cạnh tháp chuông còn một nhóm Phật tử nghe đâu ở Đồng Tháp ra để viếng thăm thiền sư. Nơi đây có 2 bàn và đôn bằng đá, chúng tôi ngồi chờ. Giữa chỗ chúng tôi ngồi và Tăng xá có một hàng rào sắt, trước hàng rào có mộ của 3 vị Thái giám, có tháp của 2 vị Hòa Thượng trụ trì chùa.
Nga cầm phong bì có tiền đưa cho tôi và nói: “Thưa chú, chú là người lớn tuổi. Vậy chú đại diện cho nhóm giữ phong bì nầy, khi gặp Sư ông, chú cúng duờng cho Sư ông.” Tôi không thể từ chối, cũng đóng góp thêm một số tiền, mặc dù biết nhà tôi đã đóng góp cúng dường rồi.
Hơn 4 giờ, ông thầy thuốc đến, ông ta tuổi ngoài 50, cho biết đã nhờ một vị Ni thu xếp cho chúng tôi vào thăm viếng thiền sư. Trong lúc chờ đợi, cô Lausa gặp một người bạn, cô nầy đi với người bạn khác. Thỉnh thoảng có người đi vào khu Tăng xá, có một ni cô mở cổng và đóng cổng, nơi đây có sân rộng có vài chú tiểu đá cầu hoặc tập thể dục.
Trong khi chờ đợi, tôi đi xem khu mộ của những vị Thái Giám, có cổng và tường rào, nhưng rêu phong khắp cả, bên trong có nhiều ngôi mộ cổ, bia thì được dựng mới. Phía trước và thế đất thấp hơn, có nhiều ngôi mộ Thái giám mới trùng tu, những ngôi mộ nầy liền với khu 2 tháp và 3 mộ Thái giám gần chỗ chúng tôi ngồi.
Bỗng nhiên bạn của Laura, từ giữa Tăng xávà liêu trụ trì hấp tấp vui vẻ đi ra cổng rào, tay vẫy chúng tôi như dấu hiệu kêu gọi đi vào, thế là chúng tôi đi vào trừ có Nga và Đà không đi, chừng như chưa được phép chính thức nên không vào.
Chúng tôi vào đứng ở vách Tăng xá, nhìn sang liêu phòng, thấy Thiền sư tươi tĩnh, nhìn sang chúng tôi. Mọi người lấy điện thoại thông minh ra, nhưng có ai đó khuyên không nên chụp ảnh. Tôi bước đến vị tăng đứng gần đó, cho biết nhóm Phật tử chúng tôi có số hiện kim cúng dường thiền sư, nhờ giúp dùm, vị tăng ấy nhận phong bì, bảo tôi đứng chờ, ngay lúc đó thị giả đã đẩy chiếc xe lăn, đưa thiền sư đi khuất khung cửa sổ, nghe nói đưa thiền sư đi thọ thực.
Chúng tôi chia làm 2 xe ra về, một nhóm đi ăn mặn, chúng tôi ăn chay nên đến quán chay Bồ Đề bên bờ sông Hương, gần cầu Tràng tiên. Gọi mấy món ăn, dở tệ là món mì xào dòn, hình như là bún Tàu, có vài cọng chưa chín nên vẫn còn nhỏ và cứng ngắt. Gỏi với bánh Bột lọc ăn được ngon miệng.
Đà đi bệnh viện về, cho biết sẽ gọi tôi đi bộ ban đêm, nhưng tôi từ chối vì thời tiết oi bức quá, mọi phòng đều mở máy điều hòa, nên không mát là bao nhiêu.
Một ngày đến Huế, xem như chúng tôi đã toại nguyện vì đã được thăm viếng thiền sư Nhất Hạnh, mặc dù chỉ đứng xa khoảng chừng 7 hay 8 thước trở lại.
Xem thê hình ảnh tại:
Tham quan Thiền viện Trúc Lâm Bạch Mã
Sáng hôm nay, chúng tôi ăn sáng tại Quán cơm chay dưỡng sinh, số 3 Lê Quý Đôn, nơi đây là một phần đất thuộc chùa Liên Hoa, hôm nay có thêm anh Hồ Minh Quân từ Sàigòn ra Đà Nẵng rồi từ Đà Nẵng ra Huế nhập vào nhóm chúng tôi. Quân cũng ăn chay.
Sau khi điểm tâm, đoàn chúng tôi gồm có 9 người, nên chia thành 2 xe đi Bạch Mã, để viếng thăm Thiền viện Trúc Lâm Bạch Mã.
Từ khi xây dựng Thiền viện Trúc Lâm tại Đà Lạt năm 1993, kế tiếp trùng tu chùa Lân ở núi Yên tử tại Quảng Ninh thànhThiền viện Trúc Lâm Yên Tử năm 2002, rồi Thiền viện Trúc Lâm Bạch Mã tại Huế năm 2006, Thiền viện Trúc Lâm Hộ Quốc tại Phú Quốc 2011, Thiền Viện Trúc Lâm Phương Nam tại Cần Thơ năm 2013, đó là những Thiền viện thuộc thiền phái của Hòa Thượng Thích Thanh Từ, ngoài ra còn có những Thiền Viện được xây dựng trước đó như là Pháp Lạc Thất năm 1966, sau đổi ra Tu viện Chân Không ở Vũng Tàu, Thiền viện Thường Chiếu ở Đồng Nai.
Lần nầy chúng tôi muốn viếng chùa, tham quan cảnh trí ở vùng Bạch Mã, nơi đó Hướng Đạo hay Gia Đình Phật Tử thường tổ chức Trại huấn luyện hay trại du ngoạn.
Chùa xây dựng nơi có một voi đất thuộc núi Bạch Mã nằm trong Vườn Quốc Gia Bạch Mã. Đến Thiền Viện Trúc Lâm Bạch Mã trước tiên người ta nhìn thấy Phật Đài. Muốn đi đến Thiền Viện Trúc Lâm Bạch Mã, người ta phải dùng thuyền máy để đi qua cái đầm.
Thuyền sẽ đậu dưới bến. Muốn đi Phật đài phải đi qua cái cầu và lội bộ 500 m. Muốn đi lên Thiền viện, từ bến đò chúng ta phải đi bộ một khoảng chừng 100 m, sau đó bước lên 174 bậc thang mới đến tam quan.
Qua khỏi tam quan có tháp chuông bên tay phải bên tay trái có nhà khách, ở giữa là Chánh Điện phía sau có Tổ đường.
Hôm chúng tôi viếng Thiền viện, trên cây bên cạnh tháp chuông có con Vọc đang ở đó. Quân chụp ảnh nó, đến gần để lấy ảnh đẹp.
Quân bị con vọc cắn vào mông, rách quần. Những người chụp ảnh cho biết thường ngày nó hiền lắm, có lẽ nó tưởng Quân dùng khí giới bắn nó, nên nó nhảy tới cắn Quân.
Chúng tôi vào Chánh điện lễ Phật, ra sau Tổ đường lễ Tổ, thấy có tượng của Hòa thượng Thích Thanh Từ vác Thiền trượng, tượng to lớn cao chừng 3 thước, phết nhủ vàng.
Vì hôm qua, ông thầy thấy nhà tôi chân bị yếu nên ra tay tế độ, hẹn hôm này vào lúc 2 giờ đến khách sạn chữa trị cho nhà tôi, vì thế chúng tôi phải ra về sau khi xem đồng hồ đã hơn 12 giờ. Ra về, mặc dù chúng tôi chưa đi tham quan vài kiến trúc khác của chùa, cũng không gặp bất kỳ vị tu sĩ nào ở chùa.
Về khách sạn một chốc thì được ông thầy đến thoa bóp thuốc cho nhà tôi, rồi chúng tôi nghỉ ngơi. Trong khi đó Đà và Quân vào Từ Hiếu. Chiều hôm nay Thiền sư Nhất Hạnh được thị giả đẩy xe lăn cho người đi dạo quanh chùa, Đà và Quân được Thiền hành theo thiền sư.
Buổi chiều chúng tôi đi ăn chè rồi đi Cyclo dạo phố Huế, đi qua cầu Tràng Tiền, Chợ Đông Ba vào Thành Nội qua cửa Đông Ba.
Ra cửa khác gặp Bến ngự rồi trở về khách sạn, đi ăn để Hải Đoan và Thanh đáp chuyến bay Vietnam Airlines về Sàigòn chuyến 8 giờ tối. Lúc đến quán ăn đã gần 7 giờ.
Đà. Nga và chúng tôi lại đi ăn ở Liên Hoa, Nga sẽ đáp chuyến bay chót của Vietnam Airlines vào lúc 10 giờ đêm. Trong khi đang ăn Đà nhận được điện thoại Hải Đoan và Thanh chưa lấy Chứng minh nhân dân nộp cho khách sạn hôm qua. Thế là Đà tức tốc bỏ ăn bắt xe về khách sạn lấy giấy tờ mang ra phi trường cho hai cô nàng.
Chúng tôi ăn xong trở về khách sạn nghỉ ngơi, Nga lại đi vào bệnh viện thăm người bệnh trước khi về Sàigòn.
Đoàn còn lại có Quân, Đà, Laura, Tiên và chúng tôi sẽ đi tham quan vài nơi cho ngày mai. Đà muốn đưa anh chị em đi thành nội hoặc đi chùa. Quân muốn đi chùa Từ Vân, tôi muốn đi chùa Tường Vân nhưng không phát biểu còn Laura, Tiên và nhà tôi không thấy có ý kiến chi hết.
Biết tôi đi Huế, Nguyễn Hữu Lộc nói với tôi: “Ra Huế ông đi viếng thăm thiền sư Nhất Hạnh và nên tham quan Thiền viện Trúc Lâm Bạch Mã cảnh quang rất đẹp.”
Xem thêm hình ảnh tại:
Ngày rời cố đô Huế
Hôm qua 3 thành viên đã đáp chuyến bay về Sàigòn, vì họ có công việc phải làm đó là Hải Đoan, Thanh và Nga. Chúng tôi còn lại có Quân, Đà, Laura, Tiên, nhà tôi và tôi.
Hôm nay, 22-4-2019 sáng sớm tôi đi ra sông Hương ngồi uống cà phê vỉa hè, có những người già cũng như trung niên đi bộ thể thao, có những người đi bộ xong, quay quần bên bàn cà-phê thưởng thức những giọt đắng và trao đổi nhau những câu chuyện buồn vui.
Cầu Tràng Tiền sáu vài mười hai nhịp,
Thương nhau rồi xin kịp về mau.
Kẻo mai tê bóng xế qua cầu,
Bạn còn thương bạn, biết gửi sầu về nơi mô ?
Thương nhau rồi xin kịp về mau.
Kẻo mai tê bóng xế qua cầu,
Bạn còn thương bạn, biết gửi sầu về nơi mô ?
Với cầu, sàn nối từ móng nọ sang móng kia gọi là nhịp. Vậy cầu Tràng Tiền có 6 nhịp, mỗi bên có phần hình vòng cung gọi là Vài. Như vậy thực tế Cầu Tràng Tiền chỉ có 6 nhịp và có đến 12 Vài. Nhưng do người ta đặt Ca dao, thay đổi chỗ cho được đúng vần đúng điệu.
Buổi sáng thật thanh bình trên bờ sông Hương, dùng xong ly cà phê, tôi đứng lên theo đường đi bộ dọc bờ sông trở về khách sạn, nhìn về phía Cồn Hến thấy có người chèo thuyền buỗi sáng thật quá nên thơ.
Sáng nay chúng tôi cùng đi trên chuyến xe 7 chỗ, do Quân chủ động hướng dẫn, trước tiên là đi đến Vĩ Dạ, do đường đang sửa chữa, nên chúng tôi chỉ đến một đoạn ngắn, nhìn ngôi nhà xưa với những hàng cau, để nhớ đến Hàn Mạc Tử, viết về mối tình si tiểu thư Hoàng Thị Kim Cúc, sau nầy chị là Tổng Giám Thị Trường Đồng Khánh.
Bài thơ nhiều người đã biết Ðây Thôn Vĩ Dạ :
Hoàng Thị Kim Cúc
Sao anh không về chơi thôn Vĩ ?
Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên,
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc,
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên,
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc,
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
Gió theo lối gió, mây đường mây
Giòng nước buồn thiu, hoa bắp lay,
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó ?
Có chở trăng về kịp tối nay ?
Giòng nước buồn thiu, hoa bắp lay,
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó ?
Có chở trăng về kịp tối nay ?
Mơ khách đường xa, khách đường xa,
Áo anh trắng quá nhìn không ra.
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh,
Ai biết tình ai có đậm đà.
Áo anh trắng quá nhìn không ra.
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh,
Ai biết tình ai có đậm đà.
Năm 1941, Chị Hoàng Thị Kim Cúc có bài thơ cảm tác Ở Đây Thôn Vỹ Dạ:
Bao năm Hoa sống nơi thôn Vỹ
Thầm giữ trong lòng một ý thơ
Vẫn biết cách xa ngoài vạn dặm.
Tình anh lưu luyến cảnh quê mơ!
Một mình một cõi với nước mây
Với cả đau thương với hận này
Anh khéo lột hết tài nghệ sĩ
Lẫy lừng danh tiếng kể từ đây.
Hồn anh lẫn khuất tận mô xa,
Hoa biết cùng ai thổ lộ ra
Tuy sống giữa đời phức tạp ấy
Ai biết tình ai vẫn đậm đà!!
Thầm giữ trong lòng một ý thơ
Vẫn biết cách xa ngoài vạn dặm.
Tình anh lưu luyến cảnh quê mơ!
Một mình một cõi với nước mây
Với cả đau thương với hận này
Anh khéo lột hết tài nghệ sĩ
Lẫy lừng danh tiếng kể từ đây.
Hồn anh lẫn khuất tận mô xa,
Hoa biết cùng ai thổ lộ ra
Tuy sống giữa đời phức tạp ấy
Ai biết tình ai vẫn đậm đà!!
(H.H. thôn nữ)
Xin mời đọc chi tiết tại https://kontumquetoi.com/2017/04/21/la-truc-che-ngang-mat-chu-diengai-hue-thoi-tien-chien-phan-thanh-tam/
Người ta cũng nhắc đến Mộng Cầm, tôi nhớ có đọc bài báo viết về Mộng Cầm, có đăng cả ảnh, thi sĩ Mộng Cầm mất vào ngày 23-7-2007 tại Phan Thiết.
Ảnh bà Mộng Cầm chụp vào năm 1990
Quân thích ghi kỷ niệm tại ngôi nhà xưa ở Vĩ Dạ.
Quân thích ghi kỷ niệm tại ngôi nhà xưa ở Vĩ Dạ.
Rời thôn Vĩ Dạ, chúng tôi đi tham quan cầu ngói Thanh Toàn. Tại đây có nhiều du khách ngoại quốc hơn là du khách Việt.
Chúng tôi thuê xuồng, cứ 3 người 1 chiếc, sau khi xuống xuồng, trước tiên người ta thả một mẻ lưới rồi bơi xuồng chui qua cầu, ra một con rạch lớn hơn một chút. Người bơi xuồng, bơi một đoạn rồi bơi trở lui cho chúng tôi chụp ảnh có cái Vó, sau đó chui qua cầu thu lưới để bắt cá, có nhiều cá mắc lưới, cá chỉ lớn chừng 2 ngón tay, cá mắc lưới cả thảy chừng chục con. Quân cho tiền, yêu cầu họ thả cá chớ không nên bắt chúng.
Sau khi nghe ngâm thơ và mua vài vật kỷ niệm xong, chúng tôi ra xe đi đến chùa Diệu Đế, hiện nay chùa đang trùng tu ngôi Chánh điện vài năm nữa mới xong.
Thấy Laura và Tiên chụp ảnh bên cạnh cây vả, tôi hỏi một chị làm bếp đứng gần đó hái một trái ăn, chị lấy dao gọt vỏ, xẻ ra làm mấy miếng và lấy muối cho tôi dung, nhưng chị cho biết trái nầy già ăn sẽ chát.
Có một thầy có lẽ là thầy trụ trì, bảo tôi: “Anh hái trái non ăn ngon hơn”. Thế là chị khi nảy hái cho tôi vài trái non, tôi lấy một trái ăn để nhớ tới năm 1965, đi với phái đoàn BHDTW GĐPTVN có cả Thầy Minh Châu, anh Trần Quang Thuận và các anh Võ Đình Cường, Cao Chánh Hựu, Lê Cao Phan, Lữ Hồ, Lương Hoàng Chuẩn, Nguyễn Khắc Từ…
Lúc tham quan chùa Thiên Mụ anh Trần Quang Thuận xin phép Ôn Đôn Hậu mở cửa Tháp, nhờ đó tôi đã leo lên đến tầng tận cùng, nghe nói xưa kia thờ tượng Phật bằng vàng trên đó. Hơn nữa lúc ra phía hông chùa, thấy anh Thuận đang ăn sống trái chi xanh xanh, hỏi anh, anh bảo: “Trái vả, bẻ một trái ăn cho biết hỷ ! Xuống bếp xin muối, chấm muối như anh đây mới ngon.”
Những người tôi nêu tên trên, ngày nay không còn nữa, hoặc đã cao đăng Phật quốc hoặc cát bụi trở về cát bụi từ lâu rồi.
Rời Diệu Đế, chúng tôi đến chùa Từ Vân. Thầy trụ trì Thích Vân Pháp và anh Quân đã quen biết nhau từ một chuyến du lịch, tham quan chùa chiền ở Miến Điện hay Tích Lan trước đó.
Chúng tôi vào chùa lễ Phật, rồi sang hậu liêu, Thầy Trụ trì đang thọ trai, nên chúng tôi được thị giả mời sang phòng khách uống trà. Sau khi thọ trai xong, Thầy Vân Pháp sang tiếp nhóm chúng tôi rất thân tình. Thầy đem hộp bánh chocola ra mời, mọi người không dám chối từ.
Thấy ngồi đã lâu, hơn nửa vào giờ trưa nên chúng tôi cáo từ. Mọi người được mời chụp tấm ảnh kỷ niệm với Thầy cạnh bức tranh thư pháp.
Mấy năm trước tôi đã biết tin Thầy viên tịch, nay ra Huế thăm lại Tường Vân, thấy được công trình xây dựng chùa rất hoành tráng, tôi đã tìm thấy tháp của Thầy. Trước kia tôi biết thế danh thầy là Nguyễn Hội, sinh năm 1942, pháp hiệu Chơn Thiện, nay mới biết thêm Pháp danh Thầy là Tâm Ngộ, nên phía sau lưng bia mộ của Thầy có một chữ Ngộ.
Vì buổi trưa chư Tăng nghỉ trưa, không thấy ai cả, nên mọi người ra về. Khi ra tới xe đậu trong sân chùa, tôi chợt nhớ, phía tay phải của chùa có ngôi nhà khá lớn, cửa mở và gian bên cạnh cũng mở cửa, nên tôi trở vào, bước lên các bậc thang, đi qua khoảng sân, bước vào trong gian chính, tôi thấy có một bàn thờ khá lớn, treo độc tấm ảnh màu của Hòa Thượng Chơn Thiện. Không thể gọi là Tổ đường, có thể gọi là điện thờ Hòa Thượng Chơn Thiện.
Trước bàn thờ có một bộ ván, hai bên là 2 hàng pháp khí, trước bộ ván có chuông và mõ.
Tôi nghĩ, có thể trước đây là phòng làm việc hay phòng khách của Hòa Thượng. Tôi bước qua bên cạnh, là một căn phòng nhỏ, có lẽ là phòng của thị giả của Thầy. Dù rằng không thể vào Chánh điện lễ Phật, nhưng đã viếng được tháp, bia mộ và điện thờ Hòa Thượng, nên tôi ra xe.
Đã quá trưa, nên chúng tôi đi luôn đến nhà hàng chay Thiền Tâm dùng cơm trưa.
Trời hôm nay cũng khá oi bức, sau khi dùng cơm xong chúng tôi về khách sạn nghỉ ngơi, để 16 gìờ 30 trả phòng, ra phi trường Phú Bài đáp chuyến bay 18 giờ 30 về Sàigòn.
Về khách sạn nghỉ một lúc, nhìn đồng hồ đã 15 giờ, tôi nghĩ sao mình không đến Từ Đàm thăm lại chốn xưa ? Vào tháng Giêng năm 1964 chúng tôi ra Huế với Phái đoàn Huynh Trưởng Thủ Đô, năm đó chúng tôi ngụ tại chùa Linh Phong, thăm viếng Từ Đàm, Từ Hiếu, Diệu Đế, Thiên Mụ, Ba La Mật …
Tôi gợi ý, nhà tôi đồng ý thế là chúng tôi gọi Taxi đi tới Từ Đàm, mới vào sân chụp tấm ảnh chùa, tháp và cây Bồ đề, có một cô Phật tử chỉ cho nhà tôi biết trên lầu chỗ Hòa Thượng Thích Trí Quang ở. Thế là chúng tôi lên lầu, cô ta lại theo lên hướng dẫn chúng tôi nhờ một thầy đang tưới lan, nhờ thầy ấy giúp cho vào thăm Hòa Thượng. Thầy ấy cũng sốt sắn đi tìm Thị giả báo cho biết chúng tôi muốn thăm viếng Hòa Thượng. Vị tăng nầy bảo cho tôi biết thăm được hay không là do Thị giả.
Khi Thị giả mở cửa phòng ra hỏi tôi có việc chi cần gặp Hòa Thượng. Tôi cho biết trước đây khi Hòa Thượng ở Quảng Hương Già Lam, Gia Định giáo sư Nguyễn Văn Hai nguyên Phó Viện trưởng Viện Đại Học Huế có nhờ tôi đến thăm sức khỏe Hòa Thượng, nay nhân tôi từ Sàigòn ra đây muốn thăm sức khỏe của Hòa Thượng.
Thị giả hỏi:
- Có phải Hồng Dương Nguyễn Văn Hai không ?
- Dạ phải.
Thị giả ôn tồn nói với tôi:
- Xin lỗi ! Do Hòa Thượng bị bệnh mất ngủ, nay ngài đang ngủ, tôi không thể đánh thức ngài dậy. Tôi đưa hai đạo hữu vào nhìn Hoà Thượng đang ngủ mà thôi.
Tôi hỏi xin chụp ảnh. Thị giả từ chối bảo không nên. Ngay lúc đó, Thị giả hướng dẫn chúng tôi tới cửa phòng ngủ của Hòa Thượng, nhẹ nhàng Thị giả mở cửa, ra dấu cho chúng tôi bước vào. Tôi nhìn thấy Hòa Thượng nằm trên cái giường, ngài năm nghiêng tay trái, đấp toàn thân một cái chăn, trừ có mặt và bàn tay trái ngài đưa ngang mặt, tay phải trong chăn, đầu trùm chiếc mũ nâu. Trông sắc mặt ngài hơi gầy, da mặt hơi xanh hay vì trong phòng không được sáng, nên thấy như thế.
Tôi lễ xong ngài một lễ, Thị giả ra dấu chỉ xá mà thôi, nên tôi xá đủ ba xá rồi đứng lên, nhà tôi cũng xá xong ba xá, thế là chúng tôi rời khỏi phòng để Hòa Thượng nghỉ.
Sau đó, chúng tôi qua Chánh điện lễ Phật, vừa lễ xong tôi gặp Nguyễn Thanh Chi là cựu học sinh Phan Đình Phùng, chúng tôi chụp ảnh, trao đổi vài câu rồi tôi rời Chánh điện. Sau đó, Thanh Chi ra sân gặp chúng tôi cho biết trước đây có đi Từ thiện, được Phạm Thị Minh Nguyệt cựu học sinh Nguyễn Trường Tộ đưa đến viếng thăm chùa nầy. Rồi chúng tôi chia tay, vì tôi còn ít giờ để ra phi trường.
Về đến khách sạn, chúng tôi còn 10, 15 phút kiểm tra lại hành lý, giấy tờ rồi xuống phòng Lễ tân trả phòng. Sau đó chúng tôi lấy Taxi ra phi trường, còn Quân buổi trưa lúc 15 giờ đã có xe rước đi về Đà Nẵng, để sáng hôm sau về Sàigòn, nghe đâu về Đà Nẵng anh mãi mê tham quan, chụp ảnh nên trễ chuyến. Nhưng cũng về đến Sàigòn trong buổi sáng hôm đó.
Chúng tôi không ai ký gửi hành lý, xuống máy bay rồi, chúng tôi chờ một lúc không thấy Đà, Laura và Tiên đâu cả. Ra ngoài nhà ga tại cửa Ra chúng tôi chờ một lúc cũng không thấy ai cả, nên chúng tôi đành ra về không có chia tay vào giờ chót.
Chuyến đi Huế lần nầy, trước tiên tôi nghĩ cho nhà tôi biết thêm Huế, mặc dù vài năm trước chúng tôi đã có một chuyến du lịch tham quan Đà Nẵng, Huế, động Phong Nha, Thiên Đường ở Quãng Bình. Riêng Huế có tham quan Đại Nội, viếng thăm chùa Thiên Mụ, buổi tối xuống thuyền nghe ca Huế trên sông Hương.
Lần nầy nhà tôi được viếng Từ Đàm, Từ Hiếu, Từ Vân, Tường Vân, Diệu Đế nhất là được viếng thăm Hòa Thượng Trí Quang, Thiền sư Nhất Hạnh mọi chuyện đều là duyên. Có đủ nhân duyên thì thành tựu. Tôi hiểu vì sao không được chụp ảnh quý ngài.
Vì giới làm thơ ngày trước ai cũng thuộc 2 câu thơ cổ:
美人自古如名將
不許人間見白頭
Vì giới làm thơ ngày trước ai cũng thuộc 2 câu thơ cổ:
美人自古如名將
不許人間見白頭
Mỹ nhân tự cổ như danh tướng Bất hứa nhân gian kiến bạch đầu
Người đẹp từ xưa như tướng giỏi Chẳng hẹn chờ ai thấy bạc đầu.
Xem thêm hình ảnh tại:
Xem thêm hình ảnh tại:
8664250419
No comments:
Post a Comment